30 tháng 12, 2017

MÁI ẤM GIA ĐÌNH



HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN SAU GIÁNG SINH
LỄ THÁNH GIA B
Hc 2,3-6,12-14; Cl 3,12-21; Lc 2,22-40
XÂY DỰNG MÁI ẤM GIA ĐÌNH HÔM NAY
1.TIN MỪNG : Lc 2, 22-40:
Image result for duc Me dang Chua vao den tho
(22) Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, (23) như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa, (24) và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con. (25) Và này đây tại Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo. Ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. (26) Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. (27) Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, (28) thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: (29) Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. (30) Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, (31) Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. (32) Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài”. (33) Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-on vừa nói về Người. (34) Ông Si-mê-Hon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. (35) Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (36) Lại cũng có một ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-en, thuộc chi tộc A-sê. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, (37) rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. (38) Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem. (39) Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét miền Ga-li-lê. (40) Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

2.Ý CHÍNH:

Tin mừng ghi lại việc Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se nêu gương sáng cho các bậc cha mẹ trong việc tuân giữ Luật Thiên Chúa qua việc các ngài đã dâng Hài Nhi Giê-su cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Tại đây Hài Nhi Giê-su đã tỏ mình là Con Thiên Chúa cho ông gìa Si-mê-on và bà ngôn sAn-na, đồng thời tỏ mình là một phàm nhân khi mang thân phận một trẻ thơ yếu đuối.

3. CHÚ THÍCH:

-C 22-24: +Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê: Luật Mô-sê dạy rằng: đàn bà sinh nở bị nhơ uế nên cần được thanh tẩy trong Đền thờ. Vì Hài Nhi Giê-su là con trai nên Đức Ma-ri-a phải lên Đền thờ làm lễ thanh tẩy vào ngày thứ 40 sau khi sinh theo như Luật dạy. +bà Ma-ri-a và ông Giuse đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa: Vì được Thiên Chúa cứu khỏi bị chết ở nước Ai cập trước biến cố Xuất Hành, nên sau này Luật Mô-sê qui định các con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa và phải được dâng cho Thiên Chúa (x Xh 15, 2 và 12). +và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con:  Theo luật Mô-sê (Lv 12,6-8) sản phụ phải dâng lễ vật để làm của lễ toàn thiêu và đền tội thay cho mình. Ở đây Ma-ri-a dâng lễ vật là một đôi chim câu, chứng tỏ ông bà thuộc thành phần nghèo. Việc dâng lễ vật này cho thấy Đức Ma-ri-a có lòng khiêm tốn vâng phục Luật Chúa truyền dạy, dù Mẹ đã được thụ thai và sinh con bởi quyền năng Thánh Thần, nên vẫn bảo tòan được đức trinh khiết.

-C 25-28: +Và này đây tại Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo. Ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông: Si-mê-on là một người công chính và có lòng kính sợ Thiên Chúa thể hiện qua việc luôn tuân giữ Luật Mô-sê. Ông đang chờ đợi niềm an ủi của dân It-ra-en là sắp được đón nhận Đấng Thiên Sai. +Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người: Si-mê-on được Thánh Thần soi sáng cho biết: ông sẽ được nhìn thấy Đấng Cứu Thế trước khi nhắm mắt. Quả thật, chính Thánh Thần đã thực hiện lời hứa khi thôi thúc ông đi lên Đền thờ đúng vào lúc cha me Hài Nhi Giê-su đưa Người lên Đền thờ để dâng tiến cho Thiên Chúa.

-C 29-32: +Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ít-ra-en dân Ngài”:  Khi bồng ẵm Hài Nhi trên tay, Si-mê-on đã thốt lên bài ca mà ngày nay vẫn được Hội Thánh đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Bài ca này gồm hai ý chính : Một là Si-mê-on đã được thỏa mãn khi bồng ẵm Đấng Cứu Thế được hứa sẽ đến, nên ông sẵn sàng nhắm mắt trong bình an thư thái. Hai là sứ mệnh của Đấng Cứu Thế dành cho mọi dân tộc chứ không chỉ dành riêng cho dân Do thái. Người sẽ trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân, phá tan mọi tăm tối để giúp mọi người nhận biết chân lý.

-C 33-35: +Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-on vừa nói về Người: Hai ông bà Giu-se và Ma-ri-a kinh ngạc khi nghe ông già Si-mê-on cho biết sứ mệnh cao cả của Hài Nhi Giê-su là sẽ cứu độ muôn dân, là ánh sáng cho muôn dân. Đây là điều Ma-ri-a chưa được sứ thần Gáp-ri-en cho biết khi truyền tin. +Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng: Si-mê-on tiết lộ cho Ma-ri-a về cách thế người đời đối xử với Chúa Ki-tô. Khi xuất hiện, Đức Giê-su sẽ chia thế giới thành hai phe: một phe tin yêu Người, còn phe kia thù ghét Người. Chính sự yêu hay ghét đó sẽ bộc lộ tâm tư của con người, cho thấy họ đứng về phía sự sự công chính chân thật hay ngả theo sự bất lương dối trá. +Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra: Riêng bà Ma-ri-a khi chứng kiến tất cả những sự thù ghét chống đối đó, sẽ bị đau khổ trong tâm hồn giống như bị một lưỡi gươm sắc bén đâm thâu vậy.

-C 36-40: +Lại cũng có một ngôn sứ tên là An-na…: Bà An-na được mệnh danh là ngôn sứ hay tiên tri, vì bà đã làm công việc của một ngôn sứ là tuyên sấm lời Thiên Chúa để kêu gọi người ta ăn năn sám hối và động viên họ phải làm việc thiện theo đường lối của Thiên Chúa. +Bà không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa: Bà An-na thực là một người đạo đức khi bà chuyên cần phục vụ Đền thờ và năng ăn chay cầu nguyện. +Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem: Bà được Thánh Thần soi sáng nhận biết Đấng Cứu Độ của dân Ít-ra-en. Bà cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và đã đi loan báo tin mừng về Hài Nhi Cứu Thế cho hết những ai đang trông chờ ơn cứu độ của dân Ít-ra-en biết. +trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét miền Ga-li-lê: Từ đây Na-da-rét trở thành quê hương của Đức Giê-su và luôn gắn liền với tên gọi của Người. Sau này Phi-la-tô đã truyền gắn bản án ghi “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái” trên cây thập giá.

4. CÂU HỎI:

1) Bài Tin Mừng hôm nay nhằm dạy bài học gì về bản tính của Chúa Giê-su? 

2) Luật Mô-sê quy định thế nào về sự nhơ uế của người phụ nữ sau khi sinh? 

3) Luật Mô-sê dựa vào đâu để quy định khỏan luật về mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa nên phải dâng cho Thiên Chúa trong Đền thờ? 

4) Qua lễ vật dâng cho Thiên Chúa để chuộc lại Hài Nhi Giê-su, chứng tỏ hai ông bà Giuse Ma-ri-a thuộc hạng giàu có hay nghèo khó trong xã hội Do thái đương thời? 

5) Ông già Si-mê-on nói tiên tri thế nào về sứ mệnh của Hài Nhi Giê-su và về tương lai của Đức Ma-ri-a Mẹ Người? 

6) Do đâu tác giả Tin mừng gán cho bà An-na danh hiệu ngôn sứ hay tiên tri? 

7) Tại sao Đức Giê-su được gọi là Giê-su Na-da-rét?


LM ĐAN VINH - HHTM

Không có nhận xét nào: