Tác giả Luca thật “cắc cớ” trong cách kết thúc câu
chuyện về “Người cha nhân hậu” (Lc 15,11-32). Nếu dùng ngôn ngữ của các
bạn trẻ hôm nay để phê bình văn chương thì phần kết của dụ ngôn “hơi bị
đột ngột”. Luca đã kết thúc câu chuyện bằng câu nói của người cha: “Con
à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết mà nay đã sống lại,
đã mất mà nay lại tìm thấy” (c. 31-32). Độc giả đang say sưa đọc, bị thu
hút vào những diễn biến rất hấp dẫn thì bỗng ngắt cái rụp, rõ chán! Thế
sau đó thì sao nhỉ?
Cách kết thúc của Luca không giống như những câu
chuyện cổ tích, là những câu chuyện thường rất “có hậu” như: rồi họ sum
vầy gia đình, sống hạnh phúc, con cháu quây quần, đến ba bốn đời…
Đây không phải là lần duy nhất Luca “cắc cớ” như
thế. Sau này, ở chương 24, khi thuật lại việc hai môn đệ trên đường đi
Emmau vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ông cũng chỉ nhắc đến danh
tính của một trong hai người đồng hành tên là Clêôpát, còn người kia tên
là gì? Chịu! Tác giả để cho mọi người “tùy nghi suy đoán”.
Trong một lớp giáo lý dành cho người lớn, vị linh
mục hỏi các học viên: “Theo các bạn thì người con cả phản ứng thế nào
sau khi nghe câu nói của người cha?”. Mọi người đều ngơ ngác. Ừ nhỉ,
chẳng bao giờ để ý xem kết cục sẽ thế nào.
Lời Chúa giống như những đoạn đường băng (pistes)
giúp cho chiếc phi cơ cất cánh và bay đến những chân trời khác nhau. Khi
gấp sách lại, độc giả được mời gọi tiếp tục dòng suy tư để tìm ra những
gì Chúa muốn nói với mình. Từ những điều vừa đọc, chúng ta suy chiêm
(suy niệm và chiêm ngắm) để có thể tưởng tượng ra những hồi, những cảnh
như các giai đoạn khác nhau của một vở kịch. Người viết bài này thử đưa
ra một vài phần kết cho dụ ngôn “Người cha nhân hậu” để mời quý độc giả
cùng suy tư.
– Kết thứ nhất:
“Nghe lời cha nói, người con cả cảm động, quỳ sụp xuống dưới chân cha
mình, thú nhận mình đã quá ích kỷ. Sự ghen tương đã làm cho đôi mắt anh
trở nên mù tối. Nỗi hận thù đã làm trái tim anh giá băng. Anh đã không
cảm động trước tình phụ tử, anh đã chẳng lưu tâm tới nghĩa đệ huynh. Thế
rồi, hai cha con cùng đi vào nhà, trong tiếng nhạc tưng bừng, trước bàn
tiệc thịnh soạn đã dọn sẵn. Hàng xóm thân quen nghe biết đến chia vui
đầy nhà. Nhìn thấy em mình, người anh ôm chầm lấy, mừng mừng tủi tủi,
nói nói cười cười, thầm nhủ từ nay no đói có nhau, chẳng bao giờ lìa xa
nhau nữa. Người anh gọi vợ con mình ra giới thiệu với em. Họ quên hết
những chuyện xưa, gia đình bình an đầm ấm trở lại. Người cha thật hạnh
phúc, vì ông thấy các con làm hòa với nhau. Ông thấy mình trẻ lại, rạng
rỡ hạnh phúc, sáng ngời niềm vui. Mọi người ai vào việc nấy. Sớm chiều
quanh nhà vang tiếng chim ca hát. Bốn mùa trong vườn muôn hoa sắc khoe
tươi…”.
– Kết thứ hai:
“Nghe lời cha nói, người con cả vui vẻ cùng cha mình bước vào phòng
tiệc. Anh nhận ra em mình, mặc dù xa cách lâu ngày, giọng nói và dáng vẻ
chú mày vẫn thế, nhìn là nhận ra ngay. Anh em kể cho nhau những kỷ niệm
vui buồn của thời đã qua. Rồi mọi việc cũng êm xuôi. Mỗi người bắt tay
vào công việc của mình. Người cha an lòng vì hai con đã làm hòa với
nhau. Nhưng những khó khăn của cơm áo gạo tiền lại không để cho mọi
người sống trong bình an như thế. Thời gạo châu củi quế ngày càng khó
khăn. “Giá kể không có thêm một miệng ăn thì…”, người chị dâu đã đánh
tiếng xa gần với tiếng chì tiếng bấc. Những ánh mắt lạnh lùng của người
anh chạm đến mặc cảm của người em đã một thời lầm lỡ đi hoang. Thế rồi,
một buổi sáng tinh sương, khi người cha thức dậy, không thấy thằng con
thứ đâu. Nó đi rồi! mảnh giấy để lại, lay lắt trên bàn thay lời muốn
nói: “Con không thể ở lại, vì sự có mặt của con gây phiền phức cho gia
đình”. Người cha đau buồn. Lòng ông ứ lại, không nói lên lời. Một bên là
con cả, một bên là con thứ, như hai cánh tay, ông chẳng nỡ chặt cánh
tay nào. Lần này chắc ông mất con mãi mãi…”.
– Kết thứ ba:
“Nghe lời cha nói, người con cả vui mừng cùng cha bước vào phòng tiệc.
Nhận ra em mình, anh vui mừng ôm chầm lấy. Cảm thương vì khúc ruột đệ
huynh trở nên thân tàn ma dại. Xót xa vì cùng dòng máu đào lâm cảnh tang
thương. Anh gọi vợ con đến giới thiệu từng người. Các cháu chẳng khó
nhận ra chú vì giống cha mình như đúc. Mọi chuyện êm xuôi. Ai vào việc
nấy. Người cha nhìn các con các cháu mà mừng như chính mình đã chết được
sống lại. Ông dự tính cuối năm sẽ lo cưới vợ cho cậu con trai. “Mình
già rồi, có vợ có chồng nó nương tựa lẫn nhau. Nếu chúng nó yên bề gia
thất, mình có nhắm mắt cũng yên tâm” – ông nghĩ thế. Nhưng người con
thứ, đã quen với thói hoang đàng, nay về nhà giống như đang ở biển lớn
bước vào ao tù. Hắn đã quen với những thứ ăn chơi xa xỉ, nay khó mà quên
được những tà áo, bóng hồng. Mặc dù lúc chăn heo chỉ mong có ai cho cám
heo ăn cũng tốt, nay về nhà, cha và anh chăm sóc cho hồi phục lại nhớ
những thú vui xưa. Hắn muốn tự do! Hắn muốn ra đi, khám phá những chân
trời mới. Người cha can cũng không được. Anh cả nói cũng chẳng nghe. Thế
rồi, một buổi sáng tinh sương, hắn lại lên đường. Cánh tay già yếu của
người cha giơ lên nhưng không thể ngăn cản. Lời nói của anh mạnh mẽ là
thế mà cũng chẳng có sức thuyết phục. Người cha đưa đôi mắt đăm chiêu
đau khổ dõi theo con mình đang dứt khoát ra đi, mãi đến khi đứa con đáng
thương chỉ còn là một cái chấm nhỏ rồi mất hút, ông còn tần ngần đứng
mãi không về. Lần này chắc ông mất con mãi mãi…”.
Ba cách kết thúc câu chuyện trên đây, cách nào
đúng? Câu trả lời ở nơi mỗi người chúng ta. Đó là lý do tại sao Luca đột
ngột kết thúc câu chuyện của mình, để rồi bị phê phán là “cắc cớ”. Tác
giả muốn mỗi người chúng ta, khi đã được ông đưa vào “đường băng” rồi,
thì tự mình tìm lấy giáo huấn cho riêng mình. Nói cách khác, mỗi độc giả
hãy tự đi tìm câu kết cho dụ ngôn được kể. Phần kết ấy không được viết
bằng giấy mực, mà là viết bằng chính cuộc đời. Trong ba cách kết chuyện
trên đây, chắc chắn ai cũng thích nhất cách kết chuyện thứ nhất, nhưng
tiếc rằng, dạng kết chuyện kiểu này trong cuộc đời lại… hơi hiếm.
– Có thể khi thực thi sám hối, tôi được Chúa nhắc
bảo: mọi người đều là anh chị em với tôi. Dù khác biệt về ngôn ngữ,
chủng tộc hay điều kiện xã hội, chúng tôi đều có cùng một Cha trên trời.
Tôi lắng nghe lời Chúa, thấy rõ chẳng có ai là kẻ thù. Tôi quảng đại
thứ tha, vì chính mình cũng đã có lần lầm lỗi. Tôi cần tha thứ cho anh
em, như tôi cần được anh em tha thứ cho tôi. Thế là, cuộc sống trở nên
êm xuôi, nhà nhà vang lên tiếng cười. Lời Chúa sinh hoa kết trái trong
tôi. Tôi đã sống một Mùa Chay đầy ý nghĩa. Tình Chúa tình người chan
chứa an vui, trần gian biến thành địa đàng.
– Có thể tôi giống như người con cả, khi nghe cha
mình nói đã nhận ra lầm lỗi và sám hối ăn năn. Tôi thấy mình từ trước
đến nay vẫn tự cho mình là người công chính. Tôi thường nhìn người khác
với cái nhìn coi thường, kết án họ là “phường tội lỗi”. Nhờ Lời Chúa tác
động, tôi được mở con mắt tâm hồn để nhìn anh chị em mình với cái nhìn
thiện cảm hơn. Tôi cố gắng bù đắp lại những thiếu sót của tôi trong cách
đối xử với mọi người xung quanh. Tuy vậy, sự cố gắng ấy không được lâu
bền. Lòng ích kỷ đang âm ỉ trong con người của tôi lại có dịp trỗi dậy,
khi những khó khăn mọi bề ập đến. Tôi tiếc vì đã đối xử tốt với mọi
người. Tôi thấy mình chỉ “ôm rơm rặm bụng”, “ăn cơm nhà vác tù và hàng
tổng”. Một sự kiện nào đó xảy ra, như giọt nước làm tràn ly, bùng nổ sự
ích kỷ đang ẩn náu trong con người tôi. Kết quả là những anh chị em mới
“trở lại” cùng Chúa rơi vào thất vọng. Họ ra đi mà không một lời từ
biệt. Họ chẳng còn tin tôi, cũng chẳng còn tin Chúa. Cuộc ra đi chắc
không có ngày về!
– Có thể tôi là người đang sống trong tội lỗi.
Những lời kêu gọi sám hối của Mùa Chay đã lay động lòng tôi. Tôi cảm
động, trỗi dậy trở về với Chúa. Tôi thấy mình được Chúa giang rộng vòng
tay để đón tôi trở về. Tôi được Giáo Hội nâng đỡ để từng bước hòa nhập
với cộng đoàn đức tin. Nhưng xem ra đời sống đức tin có phần tẻ nhạt,
toàn là những ràng buộc khắt khe. Tôi đã có thời quen sống tự do buông
thả. Những lúc đơn côi tôi lại nghĩ về thời “anh hùng hảo hán” đã qua.
Lại còn những thằng bạn đã có thời cùng tôi uống máu ăn thề quyết cùng
sinh cùng tử, nay chúng luôn lôi kéo và tôn tôi làm “đại ca”. Khói thuốc
lá làm tôi nhớ đến những giây phút làm bạn với “nàng tiên nâu”. Những
tiếng cười vô tình làm tôi nhớ đến những cô gái hư hỏng. Ngựa quen đường
cũ, tôi đã quên thiện chí ban đầu. Cũng là trỗi dậy, nhưng lần này để
ra đi tiếp nối kiếp sống trụy lạc, vẫn biết rằng đón chờ tôi trước mắt
là những cơn giông tố phũ phàng. Tôi như con ngựa bất kham. Bạn bè thân
thương không thể ngăn cản. Cha mẹ, anh em cũng đành bó tay. Tôi ra đi
không hẹn ngày về…
Một lưu ý quan trọng là hình ảnh của người cha
trong dụ ngôn. Ông thương đứa con bỏ nhà ra đi cũng như đứa con đang còn
ở lại. Ông thương đứa con sám hối cũng như đứa con cứng lòng ích kỷ.
Ông tôn trọng của các con, chia gia tài cho chúng mặc dù đau thắt ruột.
Chúng ta đều hiểu ý của tác giả Luca muốn diễn tả Thiên Chúa qua hình
ảnh người cha. Dù con người phản bội, Chúa vẫn trung tín. Dù con người
tội lỗi, Chúa vẫn yêu thương. Chúa vừa là người Cha, Ngài cũng là người
Mẹ. Là Cha, Chúa bao dung tha thứ và kiên nhẫn đợi chờ; là Mẹ, Chúa ấp ủ
chở che với lòng yêu thương từ mẫu. “Đức Chúa phán: Có phụ nữ nào quên
được con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ
đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”
(Is 49,15).
Trước lời phản đối của người con cả, người cha
không trách móc. Ông chỉ nghĩ đến niềm vui vì thấy con trở về. Ông cũng
điều chỉnh quan niệm của người con cả về người em đã đi hoang trở về:
“Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của
con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết mà nay đã sống
lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Để tôn trọng dòng chảy suy tư của quý độc giả do
ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn, người viết xin phép không thêm phần kết
luận, mà để bài viết này vẫn dở dang…
Hải Phòng ngày 5-3-2012
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét