CHÚA NHẬT
29 THƯỜNG NIÊN A - CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Xh 22,20-26;
1 Tx 1,5c-10; Mt 28,16-20
ĐỂ
CHU TOÀN SỨ VỤ RA ĐI THÂU NẠP MÔN ĐỆ CHO CHÚA
1.
TIN MỪNG: Mt 28,16-20
(16) Mười
một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền
cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy
ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và
làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều
Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế.
2.
Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC SINH:
Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra lần
cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê. Trước khi
lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mệnh đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có đức tin nhân Danh
Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mệnh dạy các tín
hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và còn hứa sẽ ở cùng các
ông mọi ngày cho đến tận thế.
3.
CHÚ THÍCH:
-
C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị
mất Giu-đa phản bội nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi
tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ
nữ và lời của Chúa Phục Sinh nhắc lại vào buổi sáng Ngày Thứ Nhất
trong tuần (x. Mt 28,7.10), các môn đệ đã quay trở lại miền Ga-li-lê
nhưng thiếu mất Giu-đa. Ga-li-lê là địa điểm truyền giáo chủ yếu của
Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin mừng. Qua việc ra lệnh cho các
môn đệ trở về Ga-li-lê, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng
nhất giữa Đức Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao
giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, tức là sau khi Người đã
từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng
Mát-thêu không xác định là quả núi nào. Sách Công Vụ nói đó là núi
Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các
ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu,
nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi.
Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1),
biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra
lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc
trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy:
Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua
thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy
Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức
Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để
xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có
mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi
các ông đã bái lạy Chúa Giê-su xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này
mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không
ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện
nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài
nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa
Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người
thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng
tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài
môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời
dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài
nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không
được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa
và quyền năng của Người để củng cố đức tin như Lời Chúa phán: “Phúc
thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).
-
C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành
động tỏ ra sự ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc
và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. +
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao
giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi
nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban
cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về
Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất
cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn
7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv
13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ:
Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su đi chinh
phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho
muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do
thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11;
21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo,
các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm
con Thiên Chúa Ba Ngôi. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy
đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải
được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội
thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). +
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục
Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ
mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến đến khi Người lại đến vào ngày tận
thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).
4.
HỎI ĐÁP:
-
HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x.
Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn
còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn
khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi ?
ĐÁP:
Có hai ý kiến giải thích về sự
hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:
1. Ý kiến
thứ nhất:
Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi
không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giê-su hay
không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông
làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là
một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên
lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã
nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết
có phải là Thầy hay không?
2. Ý kiến
thứ hai:
Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được
lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên
không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi
các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có
nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này,
không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông
trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như
vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành
văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.
-
HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa
Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính
phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giê-su ra
lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này
thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?
ĐÁP:
Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách
Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm
mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với
muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội
“Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên,
chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức
Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của
Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh
đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin
Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được“Thần khí
Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay
cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su” như sách Công Vụ thuật
lại.
-
HỎI 3: Sau khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa muốn các ông hãy
rửa tội cho người ta trước rồi mới dạy dỗ sau ?
ĐÁP:
- Công việc cứu thế của Đức
Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho
Hội Thánh thực hiện như sau:
Một là rao giảng Tin Mừng về
Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29).
Hai là chữa lành các bệnh tật.
Chẳng hạn: bệnh phong (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt
8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh bé gái (x. Mt 9,25), chữa
bệnh mù lòa (x. Mt 9,29), và nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)...
Ba là trừ quỷ. Chẳng hạn: xua
đuổi ma quỷ khỏi người bị nó ám (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt
9,32-33), bắt quỷ kinh phong phải xuất ra (x Mt 17,15-18)…
Bốn là dạy dỗ. Hãy dạy tân tòng
tuân giữ mọi huấn lệnh của Chúa truyền (x. Mt 28,20).
- Lời Chúa dạy nói trên chỉ muốn
diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc phải
làm là rửa tội và giảng dạy, chứ không buộc phải theo thứ tự trước sau
giữa việc rửa tội và việc giảng dạy. Theo truyền thống từ thời sơ khai, Hội
Thánh đã luôn giảng dạy trước để chuẩn bị tâm hồn dự tòng rồi khi họ
hiểu biết và tuyên xưng đức tin mới ban phép rửa tội dìm mình trong nước cho họ
như Phi-líp-phê đã làm cho viên thái giám được thuật lại trong sách Công vụ
tông đồ (x. Cv 8,26-40). Sách Đi-đa-kê đã chỉ dẫn việc cử hành phụng vụ
phép rửa tội như sau : “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy
rửa tội…” (Didaché 7,1).
LM
ĐAN VINH - HHTM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét